Hậu quả của COVID-19 để lại cho những nền kinh tế mới nổi nặng nề và dai dẳng hơn nhiều so với tính toán.
Theo The Economist, đã nhiều tháng trôi qua kể từ khi những người nhiễm COVID-19 đầu tiên khỏi bệnh nhưng hậu quả của loại virus chết người này vẫn kéo dài, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Một vài tháng trước, cú sốc virus Corona gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng trái phiếu, tiền tệ và cổ phiếu của thị trường mới nổi đã tăng mạnh nhờ nỗ lực của Cục Dự trữ Liên bang (FED). Ở Trung Quốc, sự phục hồi kinh tế rất đáng chú ý. GDP của nước gây bùng đại dịch này bằng cách nào đó đã tăng 11,5% trong quý II. Công ty tư vấn Capital Econom kỳ vọng rằng vào cuối năm nay, sản lượng của Trung Quốc sẽ trở về bằng mức trước thời điểm đại dịch.
Tăng trưởng của Trung Quốc đã giúp nâng giá hàng hoá, mang lại lợi ích cho khoảng 2/3 các nước xuất khẩu dầu, kim loại và các sản phẩm chính khác. Giá trị xuất khẩu hàng hoá của Indonesia tính bằng USD trong tháng 6 cao hơn 2,3% so với một năm trước đó. Các nền kinh tế lớn mới nổi khác cũng có những báo cáo đầu tiên về việc phục hồi hoặc phục hồi từng phần. Theo Trung tâm Giám sát Kinh tế Ấn Độ, trong tháng 5 và 6, Ấn Độ đã lấy lại được hơn 90 triệu trong số 114 triệu việc làm bị mất trong tháng 4.
Một số nền kinh tế mới nổi đang dần phục hồi sau đại dịch COVID-19
Tuy nhiên, 2 mối quan tâm lớn vẫn còn. Mối lo ngại lâu dài là virus để lại những vết sẹo kinh tế ngay cả sau khi nó bị đẩy lui. Còn mối quan tâm trước mắt là đại dịch vẫn đang hoành hành khắp thế giới và chưa có dấu hiệu dừng lại.
Trong khi đó, dịch bệnh trong quá khứ đã để lại một dấu ấn vĩnh viễn. Theo Ngân hàng Thế giới, 3 năm sau dịch SARS, MERS, Ebola và Zika, đầu tư trung bình thấp hơn 9% ở các nền kinh tế bị ảnh hưởng, so với những người không bị ảnh hưởng. Sản lượng trên mỗi công nhân thấp hơn gần 4%. Ước tính thiệt hại lâu dài từ COVID-19 có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều.
Chẳng hạn, đại dịch đã làm gián đoạn giáo dục tại nhiều nước trên thế giới. Những người trong độ tuổi từ 5-19 tạo thành một phần lớn dân số ở các nước nghèo hơn so với những nước giàu (26% so với 17%). Họ trở thành một phần đáng kể hơn của lực lượng lao động trong tương lai. Tuy nhiên, sự gián đoạn trong giáo dục của họ cũng có nhiều khả năng trở thành vĩnh viễn.
Vốn về con người không phải là rủi ro duy nhất sẽ phải chịu đựng. Khi triển vọng tăng trưởng yếu và không chắc chắn, các doanh nhân khó có thể đầu tư vào cơ sở, ý tưởng hoặc máy móc mới. Theo Ngân hàng Thế giới, chính phủ ở 58 quốc gia đang phát triển đã cung cấp bảo lãnh tín dụng để khuyến khích cho vay. Nhưng các ngân hàng vẫn không thích rủi ro và dòng vốn vì thế bị ứ đọng.
Đại dịch cũng đã làm gián đoạn dòng chảy thương mại toàn cầu, vốn đã không ổn định do căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Đối với các nền kinh tế mới nổi, thương mại và đầu tư nước ngoài là nguồn cung cấp cả tiền tệ và bí quyết. Gây tổn hại nặng nề cho chuỗi cung ứng toàn cầu và hợp tác quốc tế, đại dịch có thể làm thay đổi chính cấu trúc thương mại được xây dựng trong nhiều thập niên gần đây. WTO cũng đưa ra dự báo, thương mại toàn cầu có thể giảm từ 13-32% trong năm nay.
Nếu đó là sự thật, một số ngành công nghiệp ở các nền kinh tế mới nổi sẽ cần tái phát minh. Nghiên cứu của Lucia Foster và Cheryl Grim của Cục Điều tra Dân số America America và John Haltiwanger của Đại học Maryland đã phát hiện ra rằng việc phân bổ lại công nhân giữa các công ty đã chậm lại ở Mỹ trong thời kỳ suy thoái kinh tế vừa qua. Cuộc khủng hoảng đã loại bỏ các công ty sản xuất cũng như các đối thủ yếu hơn. Tỉ lệ thất nghiệp tăng lên nhanh chóng.
Ảnh: Business Insider
Đối với tín dụng, các nhà hoạch định chính sách tại các nền kinh tế mới nổi đã cố gắng giữ cho các ngân hàng và các công ty nguyên vẹn. Theo Ngân hàng Thế giới, vào tháng 3, các ngân hàng trung ương ở 42 quốc gia đang phát triển đã cắt giảm lãi suất, nhiều hơn bất kỳ tháng nào trong năm 2008. Một số ngân hàng trung ương cũng đã mua trái phiếu có chủ quyền, giúp các chính phủ cung cấp nhiều gói kích thích.
Tung ra các chương trình kích thích tài khoá, các nhà quản lý tài chính đã trở nên dễ dãi hơn. Trong một số trường hợp, các biện pháp phi pháp vĩ mô này đã làm gián đoạn cải cách của nhiều nền kinh tế. Chẳng hạn như với Trung Quốc hay Philippines. Chính phủ sẽ phải đối mặt với gia tăng nợ xấu mà không gây rủi ro cho sự phục hồi. Giống như cơn bão miễn dịch Cytokine có thể giúp tiêu diệt căn bệnh này nhưng cũng đồng thời gây nguy hiểm cho bệnh nhân nhiễm COVID-19.
Các nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển phải cẩn thận để ngăn chặn điều gì đó tương tự xảy ra với nền kinh tế của họ. Họ đã phản ứng với sự gây hấn chính đáng cho đại dịch. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát, cơn bão của các biện pháp phòng thủ này có thể có một số tác dụng phụ đầy rủi ro.
Sơn Nguyễn
* Nguồn: Nhịp cầu Đầu tư